Muốn thành công khi gọi vốn đầu tư từ các tổ chức tài chính hoặc nhà đầu tư nước ngoài, theo các luật sư của công ty TriLaw Firm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa của chúng ta cần phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng về kế hoạch gọi vốn, có hồ sơ pháp lý minh bạch và không nên chấp nhận mọi điều kiện do nhà đầu tư đưa ra bằng mọi giá.
Trong thời buổi mà các ngân hàng Việt Nam bắt đầu siết chặt tín dụng, phương cách gọi vốn đầu tư từ các tổ chức tài chính, các nhà đầu tư nước ngoài đang được rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) hướng tới.
Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư, thì vật cản lớn nhất với các SMEs Việt Nam khi tiếp cận nguồn vốn ngoại đến từ chính họ. Tư duy kinh doanh của các doanh nghiệp Việt đã được cải thiện rất nhiều sau quãng thời gian dài hội nhập vào dòng chảy kinh tế thế giới, tuy nhiên vẫn có không ít SMEs vẫn còn giữ tư duy khôn vặt. Mà với nhiều định chế tài chính thế giới, họ chẳng thể nào hiểu được kiểu tư duy ‘kỳ lạ’ đó của giới doanh nhân Việt nên họ sẽ không hợp tác.
Vậy thế nào là khôn vặt? Thay vì tìm cách cải tiến sản phẩm cũng như hệ thống quản lý nhằm tối ưu hóa lợi nhuận, không ít chủ doanh nghiệp SMEs không làm thế mà chỉ nghĩ đến việc lạng lách bằng nhiều chiêu thức khác nhau nhằm trốn thuế, hệ quả là một doanh nghiệp mà có tới 2 loại hai sổ khác nhau: cái dùng cho nội bộ và cái để dùng cho bên ngoài. Thậm chí, có không ít chủ doanh nghiệp cho rằng, câu chuyện có 2 sổ là điều hiển nhiên đúng khi bước vào kinh doanh.
Trong Workshop "Những vấn đề pháp lý cần lưu ý để Win – Win khi gọi vốn đầu tư" do Hội doanh nhân Trẻ TP. HCM (YBA) vừa tổ chức cuối tuần qua, anh Hà – vừa là chủ một SMEs vừa làm trong ngành ngân hàng cho rằng: hiện SMEs Việt Nam đang mắc 5 vấn đề khiến họ không thành công gọi vốn đầu tư từ ngân hàng cũng như các định chế tài chính khác.
Đầu tiên, các SMEs Việt hay có những hợp đồng – hồ sơ khuất tất và đây chẳng khác nào "lấy đá tự đập vào chân mình" khi đến thời điểm vay vốn; nhà đầu tư muốn góp vốn vào doanh nghiệp để kiếm lời, thế nên chỉ có người điên mới dám đánh cược vào một doanh nghiệp làm ăn gian dối. Thứ hai, SMEs Việt cũng ít mời các chuyên gia pháp lý khi gọi vốn, khiến họ gặp nhiều tranh tụng về quyền điều hành không đáng có sau khi hợp đồng có hiệu lực, vụ trứng gà Ba Huân là một ví dụ tiêu biểu.
Thứ ba, trong quá trình kinh doanh, các SMEs Việt không kiên định theo một mục tiêu xuyên suốt, họ thường hay "ngó ngang liếc dọc", thấy đối thủ làm mảng khác có lời thường làm theo, mà không biết mình đủ khả năng hay phù hợp hay không.
Thứ tư, startup cứ mải miết nghĩ nhiều ý tưởng khác nhau, không quan tâm nhiều đến chuyện đăng ký sở hữu trí tuệ hay chú tâm nghiên cứu hoàn thiện gói sản phẩm – dịch vụ để tung ra thị trường nhằm gọi vốn. Cuối cùng, họ hay copy ý tưởng hoặc thiết kế thay vì tự sáng tạo, như thú nhận của anh, khách hàng của công ty thiết kế mà anh đang sở hữu còn rất thích những mẫu copy đó.
"Có thể nói, trước đây các ngân hàng Việt khá ‘lỏng tay’ trong việc cho các SMEs vay và thường quan tâm đến các tập đoàn lớn hay các công ty trong các lĩnh vực tạo lợi nhuận cao chứ không phải có tác động tích cực trên diện rộng đến xã hội", anh Hà kết luận.
Theo Thạc sĩ - Luật gia Nguyễn Ngọc Duy Mỹ của TriLaw Firm, trước khi đàm phán, các nhà đầu tư lớn thường thực hiện quá trình rà soát đặc biệt – Due Dilligence (DD) công ty gọi vốn để họ đưa ra quyết định đầu tư phù hợp, do đó, các SMEs Việt nên có ý thức xây dựng hệ thống hồ sơ – chứng từ minh bạch và rõ ràng ngay từ đầu để tăng khả năng thành công khi gọi vốn, tránh mất thời gian và cơ hội của cả hai bên.
Việc một doanh nghiệp có hơn 01 bộ hồ sơ tài chính, có những hồ sơ pháp lý doanh nghiệp thiếu độ tin cậy hay đưa những kế hoạch gọi vốn không rõ ràng sẽ khó được chấp nhận bởi các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài.
"Chúng ta không được làm giả hồ sơ mà chỉ làm cho cho chúng sắc nét hơn, rõ ràng hơn, đẹp hơn. Ta chỉ trang điểm chứ ta không phải phẫu thuật thẩm mỹ", luật gia Duy Mỹ ví von.
Mặt khác, theo TriLaw Firm, các SMEs cần chú ý tới ngành nghề kinh doanh, loại hình công ty và tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể, hiện tại, ở Việt Nam, có một số ngành nghề cấm hoặc hạn chế tỉ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài, ví dụ như dịch vụ cho thuê tàu, chiếu phim, dịch vụ máy tính là những ngành nghề có quy định hạn chế vốn góp nước ngoài…Ngoài ra, với những ngành nghề không nằm trong thỏa thuận WTO, muốn kêu gọi vốn ngoại, doanh nghiệp cần gửi công văn hỏi ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Theo luật sư Phạm Duy Lâm của TriLaw, thì hiện tại, có một vài ngành nghề rất khó có thể được Bộ chấp thuận cho nhà đầu tư nước ngoài góp, ví dụ như in ấn. Thế nên, trong trường hợp này, khi nhận vốn ngoại, các doanh nghiệp cần loại bỏ ngành nghề đó trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Về việc gọi vốn bằng hình thức chuyển nhượng vốn góp, SMEs cần chú ý là, nếu doanh nghiệp là công ty cổ phần, theo quy định của pháp luật, sau 3 năm thành lập, các cổ đông sáng lập mới được quyền tự do chuyển nhượng vốn của mình cho những người không phải là cổ đông sáng lập.
Còn với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, quy định còn lắc léo hơn: trước tiên, thành viên phải chào bán phần vốn góp muốn chuyển nhượng cho các thành viên góp vốn khác trong công ty, nếu họ không mua hoặc mua không hết, thì mới được bán cho nhà đầu tư bên ngoài. Nếu trong công ty không ai chịu bán lại phần vốn góp của mình như là một hình thức gọi vốn đầu tư thì doanh nghiệp có thể chọn cách tăng vốn điều lệ để gọi vốn.
Còn ở giai đoạn đàm phán, TriLaw khuyên các doanh nghiệp Việt – bên gọi vốn không nên đưa ra kế hoạch kinh doanh quá lạc quan, thiếu thực tế và không nên chấp nhận tất cả những đề nghị của nhà đầu tư, nhất là những đề nghị về vấn đề quản trị công ty.
Thực tế, không ít chủ doanh nghiệp, nhất là các startup vì thiếu kinh nghiệm và cần vốn gấp, đã nhắm mắt chấp nhận tất cả các điều khoản cho dù vô lý của các nhà đầu tư hoặc quá bất lợi cho bên gọi vốn.
Theo kinh nghiệm của TriLaw, trong những trường hợp như thế, các luật sư sẽ có thể hỗ trợ bảo vệ cho bên bán bằng cách "làm mềm" lại những yêu cầu từ người mua. Trước một yêu cầu nhất định từ bên mua, luật sư sẽ cân nhắc xem bên bán có thể chấp nhận đến đâu các yêu cầu này, đồng thời đưa thêm điều kiện của người bán, ví dụ: nếu như bên mua đưa ra điều kiện là bên bán phải hỏi ý kiến của họ trong tất cả các vấn đề, bên bán có thể đưa ra các điều kiện để làm hẹp phạm vi khiến chúng ta phải hỏi ít hơn.
The Kafe là một bài học – kinh nghiệm cho các SMEs về vấn đề trên. Những năm 2015 – 2016, The Kafe nổi lên như một hiện tượng sau khi gọi được 5,5 triệu USD từ các quỹ đầu tư có trụ sở ở London và HongKong. Nhiều người không hiểu tại sao chuỗi F&B này được định giá cao đến vậy. Tuy nhiên, 2 năm sau, khi The Kafe chính thức bị "khai tử", nhiều người mới vỡ lẽ là "chỉ có người bán lầm chứ người mua không bao giờ lầm".
Để được đầu tư, các nhà sáng lập The Kafe đã chấp nhận điều kiện Ratchet Clause – giúp nhà đầu tư bảo đảm phần hùn của mình tại startup không bị giảm giá trị, cho dù ở các vòng định giá sau giá trị công ty có bị sụt giảm. Do đó, dù The Kafe có làm ăn thua lỗ, thì những nhà sáng lập của startup này mới là người chịu thiệt chính chứ không phải các nhà đầu tư.
Theo TriLaw, một lưu ý nữa là khi thẩm định giá một doanh nghiệp, phải thẩm định cả tài sản hữu hình và vô hình; khi thẩm định tài sản góp vốn mà theo phương thức thỏa thuận thì phải chú ý rằng giá trị tài sản góp vốn nên đúng thực tế, không nên làm cho giá cao hơn hay thấp hơn giá thực tế. Do chủ quan, thiếu chuyên môn hoặc không dự phòng thiệt hại vì định giá không đúng thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt định giá "sai một ly đi một dặm".
Ví dụ: nếu nhà đầu tư góp mảnh đất 1 tỷ đồng mà chúng ta định giá tới 2 tỷ đồng, giá 2 tỷ đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ góp vốn, cũng như quyền điều hành doanh nghiệp, dẫn đến nhiều tranh chấp có thể xảy ra sau này. Thế nên, tốt nhất nên thuê lấy một công ty thẩm định giá chuyên nghiệp có uy tín.
Như vậy, có rất nhiều vấn đề về pháp lý cần chú ý trong quá trình gọi vốn đầu tư, từ giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn đàm phán cho đến giai đoạn kết thúc thương vụ gọi vốn. Vì thế, để gọi vốn thành công thì ngoài các kỹ năng về thuyết phục, có kế hoạch kinh doanh khả quan thì SMEs cũng nên chú ý về các yếu tố pháp lý để tránh những rắc rối, đáng tiếc, bất lợi có thể có sau này.
"Không phải vì chúng tôi là luật sư mới đề nghị các doanh nghiệp nên cân nhắc chuyện thuê luật sư khi tiến hành gọi vốn, nhưng sự thật là: chi phí tư vấn pháp lý tương đối rẻ, trong khi chi phí giải quyết sự cố - khủng hoảng lại rất đắt", các luật sư của TriLaw nhắn nhủ.
Theo Trí Thức Trẻ