Theo JICA, lương tư vấn của chuyên gia Nhật đa phần giống các dự án nhà tài trợ khác thực hiện và con số 700 triệu "không chính xác".
Các chuyên gia Nhật làm việc tại công trường dự án Metro Sài Gòn. Ảnh: Như Quỳnh
Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) vừa có phản hồi về mức lương tư vấn của chuyên gia Nhật trong các dự án dùng vốn vay Nhật Bản tại Việt Nam.
Trong một báo cáo gửi Chính phủ về việc chuẩn bị thẩm định các dự án vay Nhật Bản tài khóa 2018, Bộ Tài chính đề cập, theo dự toán, lương tư vấn với mỗi chuyên gia Nhật Bản khoảng trên 30.000 USD mỗi tháng, tương đương 700 triệu đồng, chưa kể các khoản phụ cấp. Theo Bộ Tài chính, mức lương này cao hơn khoảng 20-25% so với mức lương tư vấn nước ngoài bình quân trong các dự án vay vốn ODA.
Tuy nhiên, theo JICA, con số 700 triệu đồng mỗi tháng là không chính xác bởi lương thực tế hàng tháng được dựa trên kết quả lựa chọn nhà thầu thông qua đấu thầu cạnh tranh. "Chúng tôi đưa ra các hướng dẫn về đơn giá nhằm ước tính chi phí, nhưng đơn giá này cũng không thể nằm ngoài phạm vi cho phép. Đồng thời phía Việt Nam cũng như JICA luôn xem xét cẩn thận đơn giá này khi thẩm định", đại diện cơ quan này cho hay.
Mức lương cho tư vấn trong hướng dẫn chung dành cho thẩm định được xác định dựa trên trình độ chuyên môn và kinh nghiệm toàn cầu, do đó theo JICA, không phải là một đơn giá cố định. Hơn nữa trong quá trình tham vấn, JICA cũng thảo luận kỹ lưỡng với phía Việt Nam về tính phù hợp với các định mức chi phí của Việt Nam. "Mức giá chúng tôi áp dụng đa phần là giống với các dự án tương tự do các nhà tài trợ khác thực hiện tại Việt Nam", đại diện cơ quan này nói.
Cùng với đó, JICA cho rằng, tỷ trọng của hoạt động tư vấn trong các dự án vốn vay ODA Nhật Bản không cao nên báo cáo cho rằng chi phí tư vấn làm cho tổng số tiền vay leo thang là không chính xác. Cơ quan này cũng đồng ý với ý tưởng rằng Việt Nam sẽ thúc đẩy sự tham gia của các chuyên gia tư vấn địa phương trong các dự án ODA ở Việt Nam.
Về thông tin cho rằng JICA đưa ra yêu cầu lựa chọn nhà thầu Nhật trong các dự án ODA do nước này tài trợ, đơn vị cũng dẫn biểu đồ chi tiết về nhóm quốc tịch thực hiện các hợp đồng với sự chấp thuận của JICA trong từng năm tài chính. Theo biểu đồ, các công ty Việt Nam chiếm số lượng nhiều nhất và đây là kết quả của hoạt động đấu thầu cạnh tranh trong các dự án ODA của Nhật Bản.
Liên quan đến ý kiến cho rằng tỷ lệ ưu đãi của các khoản vay bị sụt giảm so với thời gian trước, JICA cho biết, các điều khoản và điều kiện của vốn vay ODA Nhật Bản được thiết lập trên mức thu nhập của các nước (tổng thu nhập quốc dân trên đầu người). Sự hỗ trợ phát triển sẽ biến chuyển cùng với mức tăng thu nhập của nước tiếp nhận.
“Như vậy, mức độ ưu đãi của các điều khoản và điều kiện của ODA Nhật Bản đã thay đổi khi mức thu nhập của Việt Nam được xếp hạng vào trung bình thấp”, JICA cho hay.
Tuy nhiên, theo cơ quan này, sự gia tăng của lãi suất thời gian qua là rất nhỏ, từ 1,4% lên 1,5% cho các điều khoản không ràng buộc, đồng thời yếu tố không hoàn lại trong vốn vay ODA Nhật Bản theo cách tính của OECD-DAC vẫn còn cao.
Thống kê về quốc tịch nhà thầu trong các dự án ODA của Nhật trong những năm gần đây. Nguồn: JICA
Hơn nữa, cơ quan này cho rằng, mức độ ưu đãi của ODA Nhật Bản có thể được nhận thấy thông qua so sánh với các nhà tài trợ đa phương và song phương khác. Theo JICA, từ tháng 7/2017, các nhà tài trợ đa phương đã dừng cung cấp các khoản vay ODA cho Việt Nam. Việt Nam tốt nghiệp các khoản vay IDA của WB vào tháng 7/2017 và sẽ tốt nghiệp các khoản vay hỗn hợp ODA và vay ưu đãi OCR của ADB vào tháng 1/2019.
Trong khi đó, JICA cho biết, với việc thiết lập các điều khoản và điều kiện cho vay riêng, Nhật Bản vẫn tiếp tục cung cấp các khoản vay ODA cho đến khi Việt Nam tốt nghiệp hạng mục thu nhập trên trung bình (mức thu nhập quốc dân trên đầu người vượt 12.235 USD). Cơ quan này cũng khẳng định, sau khi xem xét sự tăng trưởng kinh tế hiện tại, Việt Nam có thể tiếp tục sử dụng các khoản vay ODA của Nhật Bản trong nhiều thập kỷ tới.
Theo tổ chức này, các điều khoản và điều kiện vay ODA của JICA nói chung là ưu đãi, với lãi suất thấp và thời hạn trả nợ dài, 30-40 năm. “Đây là điều mà thị trường tài chính tư nhân không thể cung cấp”, đại diện đơn vị này nói.
Theo JICA, lãi suất và thời hạn trả nợ được cơ quan này chia thành 4 loại hình cấp vốn với có một số lựa chọn. Bên vay có thể chọn khoản vay phù hợp nhất với dự án cũng như thời hạn trả nợ theo nhu cầu. “Hầu hết các bên vay thường chọn loại hình có lãi suất cố định với thời hạn trả nợ dài nhất, và chúng tôi tôn trọng yêu cầu của họ”, đại diện JICA nói, đồng thời khẳng định "không áp đặt lãi suất thả nổi đối với Việt Nam".
Theo JICA, Việt Nam hiện được xếp vào các nước có mức thu nhập trung bình thấp. Như vậy lãi suất áp dụng là 0,1% -1,5% mỗi năm và thời gian trả nợ là 30-40 năm với 10-12 năm ân hạn, đó là một điều kiện rất thuận lợi. Lãi suất áp dụng trong tài trợ cho dịch vụ tư vấn là 0,01%.
“Tại Việt Nam, thị trường vốn dài hạn vẫn chưa trưởng thành. Phần lớn trái phiếu chính phủ Việt Nam có kỳ hạn chủ yếu chỉ từ 3 đến 5 hoặc 10 năm. Do đó, làm thế nào bạn có thể huy động vốn với lãi suất thấp và thời gian trả nợ, thời gian ân hạn dài”, JICA đặt vấn đề.
Hơn nữa, khoản vay ODA của Nhật Bản thường được cung cấp kết hợp với viện trợ không hoàn lại dưới hình thức nghiên cứu khả thi hoặc hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình thực hiện dự án. Vốn trong nước không có những ưu điểm như vậy.