Năm 1894, Tư Hồng trở nên nổi tiếng khắp xứ Bắc Kỳ và toàn cõi An Nam khi trúng thầu hợp đồng rất lớn: Phá dỡ thành Hà Nội...
Đó là bà Trần Thị Lan, quê ở Nam Định, thường được gọi bằng biệt danh Cô Tư Hồng. Đánh giá về người nữ doanh nhân này, đến nay vẫn còn nhiều góc nhìn và phán xét đối nghịch nhau, cũng mờ ảo như chính cuộc đời bà.
Nữ giám đốc Công ty thầu An Nam
Năm 1882, Pháp tiến đánh lần thứ 2, chiếm đóng toàn bộ thành Hà Nội. Sau đó, chính quyền Pháp cử Bonnal sang làm công sứ. Bonnal cho quy hoạch lại khu vực hồ Gươm, làm đường lớn từ Khu nhượng địa Đồn Thủy vào thành Hà Nội, chính là phố Tràng Tiền và Tràng Thi ngày nay, rồi tiếp tục cho làm đường quanh hồ Gươm, xây tòa đốc lý ở nơi UBND TP. Hà Nội bây giờ, xây Nhà bưu điện, xây Bắc Bộ phủ… Tất cả các công trình xây dựng này đều do các công ty từ Pháp sang, cùng với các nhà thầu người Hoa ở Hà Nội đảm nhận.
Hà Nội chính thức trở thành thành phố nhượng địa vào năm 1888. Từ kinh tế, xã hội đến các giao dịch dân sự đều chiểu theo luật của Pháp, mở ra cơ hội làm ăn lớn cho nhiều người, nhưng chỉ người Pháp và Hoa kiều tận dụng được. Các công ty Pháp thực hiện hầu hết các công trình từ tiền ngân sách của chính quyền thuộc địa, một số khác mở nhà máy gạch, thuốc lá, rượu… Việc nhập khẩu hàng tiêu dùng và xuất khẩu gạo là trong tay người Hoa nắm giữ và điều hành.
Bốn năm sau, vào cuối năm 1892, có một người đàn bà mang cái tên đặc An Nam là Trần Thị Lan, 24 tuổi, đến tòa đốc lý nộp hồ sơ xin thành lập Công ty thầu An Nam. Cô Lan thông thạo tiếng Pháp, nắm chắc các điều luật và quy định của chính phủ bảo hộ để trình bày với các quan đốc lý. Các quan cũng không lạ gì cô, vì đó là cô Hồng xinh đẹp, là bạn gái của quan tư Laglan, thiếu tá hậu cần, họ đã gặp trong buổi dạ hội mừng Quốc khánh Pháp. Sau khi thành vợ quan tư, người ta ghép chức vị của chồng vào trước tên cô, gọi là cô Tư Hồng. Hà Nội thời đó đã có nhiều phụ nữ lấy chồng Tây, nhưng đa số chỉ e lệ, nép vào bóng chồng. Riêng Tư Hồng, vừa duyên dáng lại mạnh mẽ, hiểu biết và rất độc lập. Các quan nhanh chóng cấp phép mở công ty theo hồ sơ xin phép của Tư Hồng.
Cô Tư Hồng lập công ty là do cô thấy vào thời điểm này các nhà thầu cung cấp thực phẩm cho các đơn vị quân đội Pháp đóng trên đất Bắc Kỳ phần lớn là do người Hoa thực hiện, trong khi chồng cô là người có tiếng nói quan trọng trong đấu thầu việc cung cấp nên không muốn bỏ lỡ. Cô thành lập công ty do cô làm giám đốc để làm ăn. Nhờ tác động của Laglan, công ty của cô đã trúng thầu hợp đồng đầu tiên cung cấp thực phẩm cho đơn vị quân Pháp đóng ở Phúc Yên. Tiếp theo là nhiều hợp đồng khác, trong đó có cả việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho các trại giam. Từ đó, Tư Hồng bắt đầu tích lũy tiền bạc, trở thành một nhân vật trong giới thượng lưu ở Hà Nội.
Vang dội vụ thắng thầu phá dỡ thành Hà Nội
Hai năm sau, năm 1894, Tư Hồng trở nên nổi tiếng khắp xứ Bắc Kỳ và toàn cõi An Nam khi trúng thầu hợp đồng rất lớn: Phá dỡ thành Hà Nội.
Theo lịch sử, sau khi thắng quân Tây Sơn năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, cho dời kinh đô vào Huế, hạ cấp Thăng Long xuống thành Bắc Thành, cho phá thành cũ của nhà Lê để xây lại với diện tích nhỏ hơn. Thành mới hình vuông mỗi chiều dài hơn cây số nằm trong thành cũ. Vào thời điểm này, Toàn quyền Đông Dương Lanessan ký với Công ty Bazin hợp đồng chi cho Bazin 60.000 đồng Đông Dương và 90ha đất để thực hiện việc phá các tường thành xây thời Gia Long. Lý do phá thành thì có nhiều phỏng đoán, có thể là cần mở rộng đất để đóng quân, để thông thoáng cho lính Pháp sống ở đây. Thậm chí, còn có cả đồn đại, là để lấy vàng bạc chôn giấu trước đây…
Bazin được giao nhưng không đứng ra làm mà bán lại gói thầu. Tham gia đấu thầu có 2 công ty Pháp, 2 công ty Hoa kiều. Tư Hồng biết việc này, đã đề nghị thông báo công khai và cho Công ty thầu An Nam tham gia đấu thầu. Không ai nghĩ cô có thể trúng thầu. Biết mình vốn ít, máy móc không có, nhưng Tư Hồng tính đến nguồn nhân công rất rẻ là những người nông dân, cùng với việc sử dụng số gạch đá cũ của thành dỡ ra đem bán sẽ mang lại số tiền lớn để bù vào. Tư Hồng bỏ thầu giá thấp nhất và đã thắng. Để có đủ nhân công, cô về Hà Nam thuê nông dân, thưởng tiền cho ai giới thiệu từ 10 phu trở lên. Cô vào làng rèn Hòe Thị ở Xuân Phương đặt làm búa tạ, cuốc chim và xà beng với giá rẻ, thuê ông Nguyễn Quang Minh có chân trong Hội đồng thành phố, làm xe cút kít. Nhà tư sản Bạch Thái Bưởi, lúc này 20 tuổi, bắt đầu khởi nghiệp, nhận làm thuê việc dựng các lán trại cho phu ở để kiểm soát trật tự, vệ sinh, phòng tránh dịch bệnh.
Không chỉ tính toán giỏi, Tư Hồng còn trực tiếp quản lý và điều hành nhân công hiệu quả. Cô chia phu ra thành nhóm 12 người do một người phụ trách và hợp 4 nhóm thành một đội, chọn người có uy, ăn to nói lớn, cử làm đội trưởng. Công việc giao cho các đội trưởng và đội trưởng phân cho các nhóm. Cách tổ chức ấy đã cho mọi hoạt động công trường nhịp nhàng, quy củ, dù có lúc có tới cả ngàn phu cùng làm việc. Bắt tay làm năm 1894, hơn 2 năm sau công việc phá thành đã xong, sớm hơn dự kiến 6 tháng.
Số gạch đá thu được, Tư Hồng mang đi xây ngôi biệt thự bề thế ở làng Hội Vũ, xây các dãy nhà ở khu vực Cửa Đông của thành để cho thuê và xây trường Punigier. Còn thừa, cô cho chở về làng lát nền sân đình, chùa. Có những tấm đá xanh, cô thuê thợ làm thành ghế đá lớn đặt bên hồ Hoàn Kiếm cho dân ngồi chơi.
Hiện nay, những dấu vết này vẫn đang còn. Ngôi nhà ở ngõ Hội Vũ vẫn thế. Khởi thủy khu vực các phố Đường Thành, Cửa Đông, Hàng Da là từ dãy nhà Tư Hồng xây. Trường Punigier nay là trường Việt Đức. Hai chiếc ghế đá công cộng ở 16 Lê Thái Tổ bây giờ là còn lại từ số ghế đá bằng đá xanh ngày ấy…
Thành công nối tiếp thành công. Tư Hồng tham gia vào việc mua lúa gạo để xuất khẩu, mở rộng cung cấp lương thực, thực phẩm cho các trại lính và hệ thống nhà tù khắp Bắc kỳ. Tư Hồng còn tham gia cả lĩnh vực kinh doanh vận tải sông, biển. Trên tàu sông biển của Tư Hồng, chỉ có lái tàu và thợ xúc than là đàn ông, còn thủy thủ và phục vụ đều là đàn bà.
Thành người giàu có, Tư Hồng nổi tiếng vì làm việc thiện như cứu đói, phát chẩn. Có đợt phát chẩn, cô giết hàng chục con bò, chia mỗi xuất một cân gạo cùng một lạng thịt bò rồi mang phát cho các hộ dân vùng đói một cách ân cần. Cô phát thuốc cho dân tình gặp phải dịch bệnh, cô can thiệp với nhà chức trách đòi giảm án hay tha bổng những người vì nghèo đói mà phạm tội…
Có đợt, cả dải đất miền Trung bị cơn bão lớn bất ngờ ập đến, tàn phá tan hoang, rất nhiều người chết, nhà cửa bị cuốn trôi, thóc gạo bị vùi lấp hết. Tư Hồng có mấy tàu chở thóc thu mua trước đó ở vùng Nam miền Trung đang trên đường chở ra Bắc để xuất khẩu, liền đem phát hết cho dân. Vì việc này mà vua Thành Thái ban cho cô hàm “Ngũ phẩm nghi dân” với biển vàng “Lạc quyên nghĩa phụ”. Sắc phong của vua viết: “Nữ trung phong nhã chi bảo, hồng trần bạt tục. Thế thượng vân lôi cho hội, bạch thủ thành gia”, nghĩa là: “Hào hoa phong nhã bậc nhất chị em, đàn bà khác thường. Gặp thời mây tuôn sấm dậy, tay trắng nên nhà”. Cùng với đó, vua cũng truy phong cho người cha khốn khổ đã mất của cô sắc “Hàn lâm thị độc”. Thật, cũng là mát mặt…
Một cuộc đời bi kịch, bị phán xét nghiệt ngã
Thành công trong kinh doanh, nhưng cô Tư Hồng lại bất hạnh trong đời tư, trải qua ba đời chồng Việt, Hoa, Pháp mà không có con. Cái chết của cô đến nay vẫn còn là một bí ẩn lớn. Ngôi mộ cô hiện vẫn còn ở gần cổng đền Hai Bà Trưng, trên bia chỉ khắc có ba chữ "Cô Tư Hồng".
“Hồng nhan đa truân” là cái số kiếp của Tư Hồng. Tư Hồng, cùng với Ba Tý và Thị Phượng, là ba người đàn bà đẹp nức tiếng Hà Nội một thời. Vũ Thị Tý là bà chúa Hàng Bạc với động Chuông Vàng, có thân thể mềm mại như mây vờn gió cuốn, hút mọi ánh nhìn, sau thành một cô đồng lẫm liệt trong giới khăn chầu áo ngự. Vương Thị Phượng con gái Hàng Đào, là “Hà Thành tứ mỹ”, “Tây Thi khiếp vía, Hằng Nga giật mình”, có đôi mắt như chim phượng nửa thức nửa ngủ, mơ màng đắm say và cặp lông mày yên my, mây khói kỳ ảo. Riêng Tư Hồng là gái quê, là người có cặp mắt “nhãn trung hữu thủy”, đàn ông nhìn là như bị hút vào hồ nước trong xanh mà tự khuất phục.
Khi chớm đến tuổi trăng tròn, do cha cô, một nông dân rất nghèo làm nghề đánh dậm, đã nợ một khoản tiền lớn, nên lý trưởng ép phải gả cô cho lão làm vợ lẽ. Chính vì Lan đẹp mà lý trưởng tìm cách dùng tiền làm bẫy cha cô. Không chấp nhận, Lan trốn ra Nam Định. Cha mẹ Lan chết, lý trưởng bắt em trai Lan làm đầy tớ trừ nợ. Lan lấy chồng là một anh trai nghèo, hai vợ chồng mở quán bún xáo trâu kiếm sống. Cô canh cánh trong lòng việc giải thoát cho em trai và thờ phụng cha mẹ. Chồng Lan yêu vợ nhưng hèn và thất hứa, không giúp cô cứu được em trai, nên cô dứt áo bỏ đi.
Lan gặp ông Hồng là Hoa kiều ở Hải Phòng đưa thuyền về Nam Định mua buôn thóc. Gặp Lan, ông Hồng mê mẩn, liền chuộc em trai cho Lan và đưa cô ra Hải Phòng ở. Lúc này Lan thành Thím Hồng. Cuối năm 1890, ông Hồng phá sản, trốn về nước. Cô mở hiệu buôn bán tạp hóa nhỏ, gặp một người bạn có chồng Tây ở Hà Nội xuống chơi. Người bạn rủ cô lên Hà Nội sống. Cô lên Hà Nội, tự học tiếng Pháp, tiếp tục mở quán bán gạo ngoài đê, đi buôn chuyến mạn ngược rồi có dịp gặp quan tư Laglan. Không biết ai phải lòng ai? Chắc chắn chàng quan tư ngoài ba mươi tuổi chưa lấy vợ vì kén chọn đã bàng hoàng trước vẻ đẹp của cô. Còn cô đã thấy cái hèn của chồng Việt, cái thâm và cái tham của chồng Hoa, mãi mới gặp được một vị sỹ quan Pháp nghĩa hiệp, văn minh thì thấy đáng để gửi phận. Cô nên nghiệp lớn kinh doanh từ đây.
Người nữ doanh nhân tay không, nhờ kinh doanh mà thành giàu có. Đã hơn một thế kỷ trôi qua, dấu vết công cuộc kinh doanh thành công của bà, đến nay vẫn còn hiện diện ở Hà Nội. Giàu có nhưng bà vẫn sống tình nghĩa với làng mạc, họ hàng anh em, đối xử nhân đức với người nghèo khổ. Vậy mà tại sao bà lại không được đề cao? Có lẽ, ngoài cái tâm lý thù ghét người giàu có nói chung, Tư Hồng còn bị dè bỉu bởi chịu hai cái tiếng lớn:
Một, là đàn bà mà dám táo tợn nhận việc phá thành cổ Hà Nội của ông cha, mặc dù ai cũng biết, nếu bà không phá dỡ, thì người Hoa, người Pháp cũng phá. Có nhà Nho đã viết như thế này: “Than ôi! Đệ nhất cảnh Thăng Long/Vượng khí nghìn năm có nữa không/Hai cửa còn trơ hai thánh miếu/Một thành sót lại một hoàng cung/Nhường ngao ngán nỗi công ông Bạch (Mã)/Cũng ghê gớm cho của chị Hồng/Còn biết đâu là nền đế bá/Than ôi! Đệ nhất cảnh Thăng Long”.
Thứ hai là người ta đồn thổi chuyện Tư Hồng hút hồn mê dụ đàn ông, Tư Hồng lấy nhiều chồng, trong đó có chồng Hoa, chồng Pháp, cô là me Tây. Trong lễ đón sắc phong của vua Thành Thái, quan đốc học Hà Nội tặng cô đôi câu đối chữ Nôm: “Ngũ phẩm sắc phong hàm cụ lớn/Ba thuyền tế độ của bà to” giọng đầy ẩn ý giễu cợt. Đến như cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến cũng gửi đôi câu đối chữ Nho: “Có tàn có tán có hương án thờ vua, danh giá lẫy lừng băm sáu tỉnh/Nào biển nào cờ sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người”, dưới đó đề ba chữ “chi chi giã”, nói lái thành “cha cha đĩ”. Không chỉ thế, Nguyễn Khuyến còn viết bài ca trù "Đĩ cầu Nôm" để chửi khéo Tư Hồng.
Với những câu chuyện các nhân vật có danh có tiếng, có uy tín trong xã hội thời đó mà còn nhìn nhận, nói và viết về người nữ doanh nhân lừng lẫy này như thế, thì hỏi làm sao mà Tư Hồng tránh hết được tiếng oan?
Chuyện này trong thời mới, thì ta gọi là truyền thông đã “chơi ác”, đã giết chết một thương hiệu lẫy lừng đấy!
Xem thêm:
Lược sử về thời vận của doanh nhân Việt - Kỳ 1: Giới thương nhân Việt bắt đầu hình thành từ khi nào?
Lược sử về thời vận của doanh nhân Việt - Kỳ 2: Rực rỡ Thăng Long, lan tỏa Vân Đồn
Lược sử về thời vận của doanh nhân Việt - Kỳ 3: Phạt Tống bình Nguyên và câu chuyện danh tướng, thương nhân Trần Khánh Dư
Lược sử về thời vận của doanh nhân Việt - Kỳ 4: Thương cảng Hội An và ước vọng trung tâm giao thương biển
Nhà văn Nguyễn Thành Phong/Realtimes